Một trong những nhược điểm chính của việc sử dụng mỡ bôi trơn là mỡ bị đóng bánh và khô. Chúng ta đều biết rằng dầu có xu hướng tự thoát ra khỏi chất làm đặc của mỡ theo thời gian. Chúng ta cũng nhận thấy bằng chứng rõ ràng về điều này khi dầu đọng lại ở các rãnh trong các thùng mỡ mới sau 1 thời gian lưu kho.
Nghiêm trọng hơn là sản phẩm còn lại (chất làm đặc, phụ gia) đông cứng lại trong quá trình dầu gốc thoát ra và những sản phẩm này nó được tích tụ bên trong các ổ đỡ và bánh răng đang vận hành theo thời gian. Thường thì tình trạng này mất nhiều năm để phát triển, cải thiện, điều chỉnh chất lượng sản phẩm. Trong khi đó các tình trạng hư hỏng thiết bị vẫn đang diễn ra và có thể đạt đến mức thảm khốc chỉ trong vài tuần sử dụng. Hư hỏng này có thể tự lan truyền/ ảnh hưởng đến toàn bộ dây chuyền sản xuất của Nhà máy.
Khi dầu mỡ trở nên khô, lực ma sát sẽ gia tăng, gây ra nhiệt tập trung trong vòng bi.
Nhiệt độ tăng cao tiếp tục buộc mỡ khô nhanh hơn. Theo thời gian, mỡ có thể đạt đến trạng thái đặc cứng như đá cát, tuy nhiên cũng tùy thuộc vào loại chất làm đặc và điều kiện xuống cấp của mỗi loại mỡ.
Các tình trạng nghiêm trọng dẫn đến khô mỡ thường do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hãy bắt đầu bằng cách xem xét các nguyên nhân chính gây ra khô dầu mỡ. Khi nguyên nhân được xác định, chúng ta có thông tin cần thiết để chỉ định các bước khắc phục hoặc giảm thiểu vấn đề ảnh hưởng của nó.
Các tình trạng nghiệm trọng dẫn đến khô mỡ thường xuyên có thể đến từ nguyên nhân trong công tác bảo trì bảo dưỡng, phối hợp trong các công tác lựa chọn chất bôi trơn không đồng bộ.
Chúng ta có thể tham khảo các nguyên nhân chính gây ra khô mỡ bôi trơn như bên dưới:
Nguyên nhân gây khô mỡ
Ô nhiễm. Ô nhiễm tổng hợp bởi bụi, chất bẩn, tro bay có thể làm đặc mỡ giống như việc sử dụng chất tạo keo.
Mỡ không tương thích. Việc bổ sung, bơm mỡ vô tình, không đúng loại có thể dẫn đến việc tách dầu nhanh hơn. Có rất nhiều ví dụ điển hình về điều này, như sự xung đột của mỡ đất sét hữu cơ với mỡ chất làm đặc xà phòng.
Bay hơi ở nhiệt độ cao. Mỡ sản xuất từ dầu gốc có độ nhớt thấp có nguy cơ bay hơi cao nhất. Ở nhiệt độ thích hợp, dầu có thể chảy ra khỏi chất làm đặc, gây ra hiện tượng đông cứng mỡ theo thời gian (tỷ lệ dầu trên chất làm đặc thấp hơn).
Hình 1. Hình ảnh mỡ này cho thấy độ đặc quá lớn do đồng oxy hóa dầu gốc trong mỡ sớm. Hàm lượng của kim loại từ các mảnh vụn mài mòn xúc tác với đồng trong mỡ rất cao.
Oxi hóa dầu gốc. Dầu bị ôxy hóa có thể mang các đặc tính vật lý như than đá và thay đổi tương tự có thể xảy ra với mỡ. Hình ảnh dầu mỡ trong “Hình 1” xảy ra ở nhiệt độ phòng do hàm lượng của kim loại từ các mảnh vụn xúc tác với đồng trong mỡ cao. Đồng oxy hóa dầu gốc trong mỡ sớm, gây ra hiện tượng đặc.
Nhiệt độ vận hành cao. Quá nhiều mỡ trong ổ đỡ, các điều kiện cơ học (lệch trục, quá tải, v.v.), và quá ít có thể dẫn đến nhiệt độ vận hành cao. Điều này thường liên quan đến việc bôi trơn quá nhiều, gây ra nhiệt độ cao do xáo trộn trong ổ đỡ. Trong những trường hợp như vậy, ảnh hưởng đến điểm nhỏ giọt, dầu bắt đầu chảy ra khỏi ổ đỡ, dẫn đến mỡ khô và cuối cùng xảy ra hỏng hóc.
Hình 2 cho thấy một ví dụ về ổ đỡ.
Vắt kiện cơ học. Một số loại ổ đỡ lăn dễ bị tách dầu hơn. Ổ đỡ bi cầu sẽ là một ví dụ như vậy. Khi mỡ bị lăn quá mức bởi ổ đỡ hoặc bánh răng, dầu có thể nhanh chóng tách ra khỏi chất làm đặc.
Điều này được gọi là vắt kiệt cơ học. Dầu được bóp như một miếng bọt biển ướt. Một số chất làm đặc có khả năng thu dầu rất tốt, trong khi những chất làm đặc khác thì không, dầu sẽ nhanh chóng tái hấp thụ vào chất làm đặc sau khi có tải nhẹ. Mỡ phức nhôm là một loại mỡ gốc xà phòng có khả năng hút lại dầu rất tốt.
Như vậy, việc giám sát tình trạng vận hành là chìa khóa để phát hiện sớm vấn đề bôi trơn cho Nhà máy của Bạn
Như đã đề cập trước đó, hãy thận trọng theo dõi chất lượng của mỡ chảy ra từ các ổ đỡ trong các ứng dụng bôi trơn mất (bôi trơn một lần). Lấy mẫu mỡ để phân tích hàm lượng dầu gốc trong mỡ, độ cứng, màu sắc, oxy hóa và sự nhiễm bẩn có thể hữu ích cho công tác phát hiện sớm vấn đề của Bạn